Sẽ có hệ thống bản đồ công nghệ các ngành quan trọng vào năm 2020
Xây dựng bản đồ công nghệ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm nhận diện chính xác vấn đề công nghệ của Việt Nam đang ở đâu để có lộ trình đổi mới công nghệ phù hợp nhằm trả lời những câu hỏi như tập trung phát triển sản phẩm nào, phân khúc thị trường nào trong tương lai…
Theo kế hoạch, việc xây dựng bản đồ công nghệ ngành chọn tạo giống lúa; ngành sản xuất vắc-xin trong 2016. Tới năm 2020 sẽ cơ bản hình thành hệ thống bản đồ công nghệ các ngành, lĩnh vực sản xuất quan trọng của đất nước.
Bên lề Hội thảo “Báo cáo kết quả xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình công nghệ và đổi mới công nghệ áp dụng cho ngành chọn tạo giống lúa, sản xuất lúa gạo tại Việt Nam”, tiến sỹ Tạ Việt Dũng, Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã trao đổi về vấn đề này.
Tiến sỹ Tạ Việt Dũng
- Thưa tiến sỹ Tạ Việt Dũng, xin ông cho biết lý do cần xây dựng bản đồ công nghệ?
Ông Tạ Việt Dũng: Bản đồ công nghệ là bộ tài liệu cung cấp rất nhiều thông tin liên quan đến thị trường, công nghệ và sản phẩm. Mối liên quan giữa công nghệ, sản phẩm và thị trường không thể tách rời nên một công nghệ sẽ cho biết được có thể sản xuất ra những sản phẩm nào và sản phẩm đó chiếm lĩnh được thị trường nào.
Bản đồ công nghệ sẽ cho ta biết các thông tin liên quan đến công nghệ trong một ngành, lĩnh vực chúng ta đang sở hữu. Và, công nghệ đó đang sở hữu ở đơn vị nào, doanh nghiệp nào…
Ví dụ như sản xuất đồ sứ, Công ty Minh Long đầu tư những công nghệ rất mới, cùng sản xuất ra một cái ly, nhưng họ có thể xuất khẩu vào châu Âu thì cần những công nghệ tiên tiến hơn. Trong khi đó, công nghệ của một số đơn vị khác không đủ để vào thị trường này cho dù cùng sản xuất cái ly đó…
Với vai trò mang tính chất định hướng, dẫn dắt các nhà đầu tư vào công nghệ và sản phẩm cho phù hợp, thì vai trò của bản đồ công nghệ hết sức quan trọng.
Tới nay, chúng tôi đã nghiên cứu, xây dựng xong toàn bộ phương pháp và quy trình xây dựng một bản đồ công nghệ.
- Việc triển khai xây dựng bản đồ công nghệ được tiến hành từ năm 2005 và theo lộ trình tới 2020 sẽ “cơ bản hình thành hệ thống bản đồ công nghệ các ngành, lĩnh vực sản xuất quan trọng.” Như vậy, phải mất tới 15 năm và quãng thời gian này có quá dài không, thưa ông?
Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy Hàn Quốc xây dựng bản đồ công nghệ mất 20 năm, Trung Quốc mất 15 năm.
Tại Việt Nam, các thống kê về khoa học và công nghệ của chúng ta tại các doanh nghiệp còn yếu nên mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, thời gian qua chúng ta có học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước, đi tắt đón đầu một số kết quả nên đã rút ngắn được thời gian xây dựng bản đồ công nghệ.
Giai đoạn khó khăn nhất trong xây dựng bản đồ công nghệ là chúng ta phải thống kê được doanh nghiệp trong từng ngành, lĩnh vực và công nghệ đang sử dụng của doanh nghiệp, các khối viện, trường.
- Đến nay, chúng ta đã nghiên cứu xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình đổi mới công nghệ áp dụng cho ngành chọn tạo giống lúa, sản xuất lúa gạo tại Việt Nam. Việc này sẽ có tác động thế nào tới ngành này, đặc biệt là người nông dân, thưa ông?
Trong bối cảnh hiện tại, chúng ta đang phải cạnh tranh hết sức gắt gao với lại các nước xuất khẩu gạo. Đặc biệt, trong tình hình biến đổi khí hậu hiện tại, việc xây dựng bản đồ công nghệ trong ngành lúa gạo hết sức quan trọng, nó cung cấp cho các thông tin, định hướng các công nghệ trong tương lai mà chúng ta sẽ phải tập trung vào nghiên cứu để cải thiện được năng suất, chất lượng, cũng như chống lại được loại bệnh, chống chịu hạn, mặn.
Chúng tôi đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn để hoàn thiện toàn bộ các định hướng công nghệ cần phải tập trung nghiên cứu trong thời gian tới. Bên cạnh đó, phải phối hợp với các chuyên gia nghiên cứu những công nghệ nhằm đảm bảo được ngành lúa gạo phát triển, có thương hiệu, giống lúa mới có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Hiện tại đã có các giống lúa được sản xuất theo định hướng của bản đồ công nghệ, đó là các giống lúa chịu hạn, mặn của Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long... Đây là các giống lúa đã được thương mại hóa và đưa vào sản xuất, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường và đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu khiến tình trạng hạn, mặn diễn ra phức tạp.
Về phần người nông dân, họ sẽ được hưởng thụ một cách gián tiếp thông qua doanh nghiệp sản xuất lúa gạo.
Cụ thể, bản đồ cho chúng ta biết về công nghệ cần đầu tư, tối ưu hóa để quá trình đầu tư công nghệ được giảm thiểu về giá thành, tránh đầu tư công nghệ lạc hậu, giúp lợi nhuận tăng lên và bà con nông dân sẽ được hưởng thụ gián tiếp qua việc này.
- Xin cảm ơn ông!
TRUNG HIỀN (VIETNAM+)