Giải pháp triển khai Mobile Money trong đại dịch Covid-19 (Phần 1)
Nhóm tác giả của Viện Nghiên cứu và Đào tạo BIDV vừa đưa ra báo cáo nhanh về dịch vụ Mobile Money. Theo nhóm tác giả, Mobile Money là dịch vụ tương đối mới nhưng có nhiều tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong tương lai xét về cả phía cung và cầu.
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến rất phức tạp với nhiều nguồn lây lan khác nhau, mà giao dịch tiền mặt cũng là một nguyên nhân. Chính phủ nhiều nước đã hạn chế dùng tiền mặt, giảm thiểu rủi ro lây lan. Với Việt Nam, Chính phủ đã có yêu cầu tại Chỉ thị 11 (ngày 4/3/2020) cần đẩy nhanh tiến độ triển khai thí điểm Mobile Money. Bản thân người dân, doanh nghiệp cũng đã giao dịch trực tuyến nhiều hơn. Ngoài ra, với gói hỗ trợ an sinh xã hội khoảng 61,5 ngàn tỷ đồng hướng đến khoảng trên 10 triệu người lao động yếu thế, bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, nhu cầu dùng Mobile Money ngày càng hiện hữu.
Dịch vụ Mobile Money tại Việt Nam
Theo GSMA, Mobile Money có thể được hiểu ngắn gọn là tiếp cận dịch vụ tài chính qua điện thoại di động. Định nghĩa này rộng và bao hàm đầy đủ ý nghĩa của dịch vụ này, nhất là từ góc độ người tiêu dùng. Mobile Money hiện đang hoạt động tại 90 quốc gia với gần 870 triệu tài khoản đăng ký, 272 ứng dụng, doanh số giao dịch mỗi ngày bình quân 1,3 tỷ USD và hơn 1 triệu tài khoản duy trì hoạt động trong ít nhất là 90 ngày. Mobile Money có 4 đặc điểm chính: việc chuyển tiền, thanh toán được thực hiện qua điện thoại di động; dịch vụ được cung cấp chủ yếu thông qua một mạng lưới các điểm giao dịch là các đại lý (có thể là chi nhánh ngân hàng, cửa hàng bán lẻ, đại lý phân phối…) nên rất rộng lớn; khách hàng chính là những cá nhân chưa có tài khoản ngân hàng (unbanked); Các dịch vụ chính bao gồm thanh toán (giao dịch bán lẻ, thanh toán hoá đơn), chuyển tiền, giao dịch tín dụng nhỏ, quản lý tài khoản, nộp và rút tiền tại đại lý…
Về bản chất Mobile Money tương tự như Ví điện tử (cũng là một dạng tiền điện tử e–money) nhưng khác so với Mobile Banking (dịch vụ ngân hàng qua di động) ở chỗ Mobile Banking là công cụ của ngân hàng, kết nối với tài khoản khách hàng để thực hiện các dịch vụ truyền thống như gửi tiền, cho vay, thanh toán... Trong khi, Mobile Money có thể không kết nối với tài khoản ngân hàng, chủ yếu để thực hiện giao dịch thanh toán, chuyển tiền với giá trị giao dịch nhỏ.
Trên thế giới, Mobile Money được vận hành và quản lý theo 4 mô hình: (i) Mô hình điều hành bởi các nhà mạng di động (MNOs), linh hoạt, tạo điều kiện phát triển Mobile Money nhất nhưng lại rủi ro nhất; (ii) Ngân hàng là nhà cung cấp dịch vụ, đặt dưới luật ngân hàng, theo đó, các nhà mạng chủ yếu cung cấp dịch vụ liên lạc, cơ sở hạ tầng; (iii) Một loại hình tổ chức mới được tạo ra dưới luật ngân hàng, song các dịch vụ được cung cấp hạn chế (thường không được cấp tín dụng); và (iv) Mô hình mà ngân hàng trung ương phát hành tiền điện tử và quản lý một nền tảng xử lý trung tâm, trở thành thành phần chính của thị trường.
“Tại Việt Nam, Mobile Money là dịch vụ tương đối mới, tuy nhiên có nhiều tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong tương lai xét về cả phía cung và cầu”, báo cáo nhận định. Theo đó, về phía cung, Việt Nam có lượng lớn thuê bao điện thoại, khoảng 129,5 triệu thuê bao (theo TCTK, 2019); trong đó số điện thoại di động băng rộng 3G và 4G là hơn 61,3 triệu thuê bao, mạng điện thoại di động đã được phủ kín hầu hết các địa phương trên toàn quốc. Với 43,7 triệu người dùng smartphones (chiếm 45% dân số năm 2019), Việt Nam đang ở mức trung bình khu vực, cao hơn so với Ấn Độ, Philippines, Indonesia và Thái Lan.
Nhiều công nghệ tiên tiến đang được áp dụng như xác thực sinh trắc (vân tay, khuôn mặt...); mã phản hồi nhanh (QR Code); mã hóa thông tin thẻ (Tokenization). Viettel và VNPT đã được NHNN cấp giấy phép cung cấp dịch vụ Trung gian thanh toán (TGTT). Cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về dân cư cũng đang được xây dựng, có thể hoàn thành trong năm 2020, phục vụ việc định danh cá nhân trực tuyến (e-KYC).
Về phía cầu, còn rất nhiều dư địa để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam. Hiện nay, mới có khoảng 63% người lớn (trên 15 tuổi) có tài khoản ngân hàng (theo NHNN, tháng 11/2019); còn theo Ngân hàng Thế giới (WB) thì tỷ lệ này khoảng 40% (2017), thấp hơn so Trung Quốc (80%) và châu Á - Thái Bình Dương (70%). Tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam năm 2019 là 11,33% (giảm 0,45% so 2018), phải phấn đấu quyết liệt mới có thể đạt mục tiêu khoảng 10% cuối năm 2020 theo định hướng Chính phủ. Tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông/GDP của Việt Nam năm 2019 là 20,2%, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Ngoài ra, phát triển các hình thức thanh toán mới, hiện đại (trong đó có Mobile Money) phục vụ khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, những người chưa có tài khoản ngân hàng, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện (Financial Inclusion) cũng là một trong các mục tiêu trọng tâm của Chính phủ tại Chiến lược phát triển tài chính toàn diện đã được ban hành tháng 1/2020.
Mặc dù vậy, việc phát triển Mobile Money tại Việt Nam cần lưu ý 6 thách thức chính, gồm: Một là, thói quen thanh toán dùng tiền mặt ở Việt Nam không dễ dàng thay đổi một sớm một chiều; Hai là, với đặc thù là sản phẩm công nghệ cao, được cung cấp chủ yếu qua các nhà mạng, việc giám sát và quản lý Mobile Money cần phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan như NHNN, Bộ Thông tin - Truyền thông, Bộ Công An…; Ba là, nếu việc định danh khách hàng, quản lý sim rác và giao dịch ẩn danh không được thực hiện chặt chẽ, Mobile Money có thể là kênh để "rửa giao dịch", ảnh hưởng đến công tác phòng chống rửa tiền; Bốn là, phát triển mạng lưới đại lý sẽ phát sinh rủi ro liên quan đến trình độ, năng lực, nhận thức và trách nhiệm của mạng lưới này; Năm là, nếu không có phương án quản lý và bảo mật phù hợp, tiền của khách hàng nguy cơ bị mất, có thể bắt nguồn từ phía nhà cung cấp, đại lý, tội phạm công nghệ thông tin hoặc thậm chí là những người thân; Sáu là, môi trường pháp lý cho Mobile Money còn chưa hoàn thiện, đồng bộ.
Theo GSMA, mức điểm cho môi trường pháp lý Việt Nam về lĩnh vực này (năm 2018) là 69,96/100 điểm, khá thấp so với Thái Lan (93,15 điểm), Malaysia (89,7 điểm); Campuchia (86,05 điểm),… do 3 yếu điểm chính: (i) Quy định về mạng lưới đại lý Mobile Money chưa có nên chưa thể đánh giá được (0/100 điểm); (ii) Quy định về xác thực và định danh khách hàng - KYC ở mức trung bình (50/100 điểm) do Việt Nam chưa hoàn thiện việc cấp mã công dân, các quy định về giao dịch ẩn danh và cho phép nhà cung cấp dịch vụ linh hoạt thiết lập các yêu cầu về định danh tối thiểu; và (iii) Cơ sở hạ tầng và môi trường đầu tư ở mức trung bình khá (65/100 điểm) do Việt Nam chưa có CSDL quốc gia về dân cư và quy định cho phép sử dụng, phân phối lãi cho các tài khoản tiền di động.
(còn tiếp)
Nhóm tác giả của Viện Nghiên cứu và Đào tạo BIDV
Xem thêm