Mã số N2041: Quy trình nuôi ghép tôm sú với cá măng trong ao đất
Nuôi ghép tôm sú và cá măng là mô hình nuôi bền vững, hiệu quả nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi thủy sản, góp phần thay đổi cách nuôi, có nhiều điểm vượt trội so với công nghệ nuôi tôm sú thông thường giúp mang lại hiệu quả cao về kinh tế và an toàn sinh học cho tôm nuôi.
Quy trình nuôi tôm sú (Penaeus monodon) kết hợp với cá măng (Chanos chanos) trong ao đất” được xây dựng dựa trên dự án triển khai thực tế ở các huyện Duyên Hải, huyện Cầu Ngang (tỉnh Trà Vinh). Quy trình ứng dụng giải pháp nuôi kết hợp, sử dụng tác nhân sinh học là cá măng để giải quyết về tảo trong ao (tảo phát triển quá mức, gây tàn lụi, ô nhiễm gây hại cho tôm) và vấn đề môi trường của ao nuôi, giúp ổn định môi trường, tạo chất lượng nước tốt, khắc phục hiện tượng tảo tàn trong ao, giảm khí độc tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho tôm tăng trưởng nhanh, hạn chế rủi ro trong nuôi tôm. Kết quả, tạo chất lượng tôm đạt yêu cầu cho xuất khẩu, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với quy trình nuôi tôm thông thường.
Mô hình nuôi cá măng xen trong ao tôm sẽ giúp ao tôm tái tạo lại môi trường và các sinh vật có lợi, hạn chế và loại trừ nhiều tác nhân gây bệnh cho tôm từ chất thải trong quá trình nuôi. Tuy nhiên, cái khó của mô hình là nguồn cá măng giống phải mua ngoài tỉnh, tỷ lệ hao hụt cao và chưa chủ động được mùa vụ… từ đó, người nuôi tôm khó xây dựng lịch thời vụ để thả ghép cá vào.
Cơ sở sản xuất có hạ tầng về ao nuôi hoàn thiện, diện tích từ 1.500-5.000m2. Ao nuôi có kết cấu nền đất chặt chẽ, giữ nước tốt, thuận tiện cho việc cấp và thoát nước. Nguồn nước phải đảm bảo các yếu tố thủy lý, thủy hóa, thủy sinh phù hợp các yếu tố môi trường cơ bản cho tôm cá phát triển tốt.
Thiết kế ao nuôi, lắp đặt các công trình nuôi, chuẩn bị ao, cải tạo ao và xử lý nước nuôi... tuân thủ theo quy trình nuôi tôm nước lợ an toàn trong vùng dịch bệnh của Tổng cục Thủy sản.
Hệ thống ao nuôi bao gồm: ao lắng, ao nuôi và ao chứa thải. Có mương cấp và mương tiêu riêng. Mức nước trong ao đảm bảo từ 1,5-2m. Bờ ao có thể lót bạt, xung quanh bờ có lưới chắn cao 0,8 – 1m tránh cá nhảy ra ngoài và hạn chế cua còng bò vào. Ao có cống cấp và cống thoát riêng. Cao trình đáy của cống cấp cao hơn đáy ao từ 0,8-1m. Cao trình đáy cống thoát thấp hơn đáy ao từ 0,2-0,3m.
Chọn giống tốt, có nguồn gốc rõ ràng và không nhiễm các mầm bệnh. Chọn loại tôm giống cỡ PL15, đồng đều khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng. Cá măng giống Khỏe mạnh, kích thước chiều dài thân từ 5-10 cm.
Tôm được cho ăn 4 lần/ngày, thức ăn gồm lòng đỏ trứng, bột cá và thức ăn công nghiệp dành riêng cho tôm có hàm lượng protein trên 40%. Thường xuyên kiểm tra tình trạng sức khỏe tôm, nếu thấy tôm chậm lớn có thể trộn thêm thức ăn bổ sung như: Vitamin, chất khoáng…đồng thời kiểm tra đáy giai để có thể tính toán lượng thức ăn cho phù hợp.
Thường xuyên theo dõi sự biến động các yếu tố môi trường nước trong ao như: pH oxy hòa tan, độ kiềm, NH3, NO2, H2S. Quản lý môi trường ao nuôi và duy trì trong khoảng thích hợp: NH3<0,1 mg/l, H2S<0,03 mg/l, oxy hòa tan >4mg/l, kiềm 80-130 mg/l. Theo dõi hàm lượng oxy hòa tan vào ban đêm (khuya): duy trì oxy hòa tan trong ao nuôi luôn luôn trên 4 mg/L và 5 ngày/lần kiểm tra mật độ vi khuẩn Vibrio và xác định số lượng khuẩn lạc xanh có trong nước, để phòng bệnh hoại tử gan tụy. Định kỳ 10 ngày/lần cấy men vi sinh) và dùng Iodin (1lít/5.000 m3 nước) diệt khuẩn trong nước khi mật độ vi khuẩn trên 1.000 CFU/mL hoặc số lượng khuẩn lạc xanh chiếm 1/3 trong tổng số vi khuẩn.
Khi nuôi ghép có 4 ngành tảo được phát hiện ở các ao nuôi đơn và nuôi ghép. Cấu trúc thành phần loài tảo trong mẫu thu và phân tích cho thấy đa số là các loài thuộc ngành tảo khuê (Bacillariophyta) với 14 loài (63,6%), tiếp theo là ngành tảo giáp (Pyrrophyta) với 4 loài (18,2%), ngành tảo lục (Chlorophyta) có 2 loài (9,1%) và tảo lam (Cyanophyta) có 2 loài (9,1%). Ở các ao nuôi đơn ngành tảo khuê và tảo lam là loài chiếm ưu thế. Một số chỉ tiêu môi trường nước (NH3-N, NO2-N, H2S,...) trong ao nuôi ghép tốt hơn ao nuôi đơn, mật độ tảo trong ao nuôi ghép ổn định và dao động thấp hơn. Điều này cho thấy ở các ao nuôi ghép tôm sú - cá măng có mật độ tảo dao động thấp và ổn định, chất lượng nước ao nuôi tốt hơn và cho tỷ lệ sống tôm nuôi cao hơn so với các ao nuôi tôm đơn.
Thời gian nuôi ghép cá măng với tôm sú kèo dài từ 120 - 130 ngày. Chọn thời điểm thu hoạch phù hợp nhất khi tôm, cá đạt kích cỡ thương phẩm và giá cả hợp lý. Thu tôm và cá măng cùng lúc. Hoặc thu tôm trước, thu cá măng chuyển sang ao lắng nuôi tiếp đến khi cần thu hoạch. Dùng lưới kéo tôm, bắt cả tôm và cá đến khi tôm bắt được rất ít thì ngừng lại, sau đó tháo cạn nước và thu vét.
Mô hình nuôi ghép tôm sú với cá măng và đây là một trong những giải pháp mới cho nghề nuôi tôm hiện nay giúp cải thiện môi trường nuôi, giảm sự ô nhiễm môi trường do tảo tàn tụi và hạn chế việc sử dụng thuốc, hóa chất trong nuôi tôm, góp phần tăng hiệu quả thu nhập trên cùng 1 đơn vị diện tích.
Thông tin
Tên tác giả: ThS. NGUYỄN THỊ KIM VÂN
Đơn vị đồng hành
Đơn vị bảo trợ truyền thông