Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh

View Original

Mã số N2101: Tấm vật liệu xây dựng tự làm mát

See this content in the original post

Với sự phối hợp đồng thời 3 cơ chế làm mát, tấm vật liệu tự làm mát mới có thể duy trì nhiệt độ ngôi nhà luôn luôn dưới 30oC.

Trong thực tiễn, chi phí làm mát chiếm tới 40% tổng chi phí năng lượng của các tòa nhà, hộ gia đình. Để chống nóng, người ta sử dụng vật liệu cách nhiệt, song hiệu quả không cao.

Vật liệu cách nhiệt  hiện có chỉ có thể giảm bớt sự đốt nóng theo cơ chế dẫn nhiệt. Trong khi đó, các cơ chế đối lưu, bức xạ khí quyển và bức xạ mặt trời vẫn gây tác động lớn làm gia tăng nhiệt độ ngôi nhà.

Trước những thực tiễn này, nhóm nghiên cứu đã hướng tới việc tạo ra các tấm vật liệu xây dựng tự làm mát để giảm sự tăng nhiệt.

Vật liệu này có thể dùng để lợp mái, tấm trần nhà, tấm ốp tường hay làm mát các nhà xưởng công nghiệp. Tấm vật liệu xây dựng có khả năng duy trì các công trình xây dựng luôn luôn ở trạng thái dưới 30oC.

Tấm vật liệu tự làm mát gồm 2 lớp vật chất xếp chồng lên nhau, hình chữ nhật, và có thể được cắt theo các hình dạng khác nhau để ghép vừa vào các công trình thực tế. lớp thứ nhất có màu trắng, có chức năng là phản xạ hầu như toàn bộ ánh sáng mặt trời. Lớp này có thành phần là các loại oxide kim loại trắng, có hệ số phản xạ lớn gồm kẽm oxit (ZnO), oxit titan (TiO2) và muối CaCO3.

Các chất này đều dưới dạng bột, có kích thước hạt được tối ưu hóa (~ 450 nm) để cho hệ số phản xạ cao nhất. Ở lớp này còn có một lượng nhỏ polymer đóng vai trò của chất kết dính là polymer PMMA.

Kết quả đo phổ phản xạ cho thấy, hệ số phản xạ của tấm vật liệu xây dựng tự làm mát đạt được tới gần 100% (> 98%). Con số này cao vượt trội so với các loại sơn phản xạ nhiệt tốt nhất hiện nay.

Lớp thứ 2 có nguyên liệu chủ yếu là rác thải nhựa tái chế. Phần ruột của lớp này là một loại polymer đã được biến tính. Chức năng của phần ruột này chính là thu năng lượng nhiệt của không khí, chuyển hóa vào các liên kết hóa học và sau đó bức xạ hồng ngoại để đưa năng lượng đó vào không gian.

Loại polymer được sử dụng là cellulose-g-polyoxyethylene. Ngoài ra có các hạt nano silica đóng vai trò như bộ khung định hình cấu trúc. Độ dẫn nhiệt của chất chuyển hóa nhiệt đo được trên thiết bị THB 500 là 0.523 W/(m.K). Đây là một độ dẫn nhiệt rất cao đối với các polymer.

Đặc biệt, thành phần vinyl floride (PVF) và sự phối hợp của nó với các thành phần khác trong ruột của lớp thứ 2 mới là yếu tố đóng vai trò quyết định đến hiệu quả bức xạ hồng ngoại.

Chất bức xạ trong tấm vật liệu xây dựng tự làm mát có đỉnh bức xạ rất mạnh (gần 100%) tại số sóng gần 1.000 cm-1 – tương đương với bước sóng gần 10 µm. Điều này tạo ra hiệu quả cao cho chức năng làm mát bằng bức xạ hồng ngoại.

 Tấm vật liệu xây dựng tự làm mát kích thước 1m2 sẽ có trọng lượng khoảng 36 - 39kg. Trên mỗi tấm đều có rãnh hẹp và gờ nhỏ để ghép các tấm với nhau. Mỗi tấm sẽ có 4 lỗ nhỏ để dễ dàng bắt vít vào tường, trần hoặc mái công trình. Khi ghép các tấm với nhau, các lỗ bắt vít sẽ được che kín để tạo tính thẩm mỹ.

Bề mặt của tấm vật liệu xây dựng tự làm mát có độ bóng nhẵn cao (một điều kiện để phản xạ ánh sáng mặt trời mạnh), do đó tạo nên giá trị thẩm mỹ cao. So với sơn, tấm vật liệu xây dựng tự làm mát có độ bền cơ học cao hơn vì dày 1,5 cm được bắt vít chắc chắn vào tường thay vì chỉ bám dính bề trên mặt như sơn.  Chất kết dính các thành phần trong tấm vật liệu xây dựng tự làm mát là polymer, vốn là vật liệu rất bền về hóa học, chịu được tác động của các chất kiềm hoặc axit.

Ngoài khả năng làm mát, sản phẩm của nhóm nghiên cứu còn có khả năng chống bám bụi, trầy xước, rêu mốc, chống ồn.

Thông tin

Tên tác giả: NGUYỄN ĐÌNH DŨNG


Đơn vị đồng hành

Đơn vị bảo trợ truyền thông