Tiếp cận nông nghiệp thông minh

Bộ KH-CN và UBND tỉnh Đồng Tháp vừa tổ chức hội thảo quốc tế về “Nông nghiệp thông minh - Cơ hội và thách thức với nông nghiệp Việt Nam”. Đây là lần đầu tiên vấn đề này được đem ra bàn thảo kỹ lưỡng ở vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất nước.

Lâu nay, khi đề cập đến cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các chuyên gia đều cho rằng chúng ta phải có nền “Nông nghiệp thông minh 4.0” tương ứng. Đối với ĐBSCL - vùng sản xuất nông sản hàng hóa trọng điểm quốc gia, nhu cầu này càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Tuy thế, ở mức độ tiệm cận, một số doanh nghiệp, địa phương bắt đầu áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào các khâu sản xuất, đóng gói sản phẩm. Tuy chưa hoàn chỉnh nhưng cũng phần nào đáp ứng được xu thế tự động hóa, giúp nông dân giải phóng sức lao động.

Ví dụ như trong lĩnh vực sản xuất lúa, ngành nông nghiệp đã áp dụng mô hình 3 giảm 3 tăng, bón phân viên, phân nhả chậm thông minh (bón 1 lần đủ dinh dưỡng cả vụ cho cây trồng), hay các mô hình tưới tiết kiệm nước gắn các sensor điều khiển tự động, hay còn gọi là những mô hình ứng phó biến đổi khí hậu, tiết kiệm được công sức và thời gian.

Theo chuyên gia Lê Quý Kha (Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam), nông nghiệp thông minh đã giúp một số nước tiên tiến sản xuất đủ hoặc dư thừa một số nông sản.

Ví dụ hiện nay tại Israel, tỷ lệ dân nông nghiệp chỉ chiếm 2,5% tổng dân số. Năm 1995, trung bình 1 nông dân của họ sản xuất chỉ nuôi 15 người. Nhưng đến 2014, mỗi nông dân của họ nuôi được 100 người và còn xuất khẩu được hơn 3 tỷ USD nông sản mỗi năm.

Tại Nhật Bản, chỉ với 2 triệu dân nông nghiệp trong tổng số 127 triệu dân, canh tác trên 1,5 triệu ha đất nông nghiệp nhưng họ không nhập gạo, thậm chí dư thừa thịt bò và một số rau quả.

Hay tại Hàn Quốc, với 2,56 triệu dân nông nghiệp, chiếm 5% trong tổng số 51,6 triệu dân, họ cũng không phải nhập khẩu gạo.

Theo khái niệm của Mạng lưới chuyên đề canh tác thông minh châu Âu, canh tác thông minh là ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại (ICT) vào nông nghiệp (Cách mạng xanh lần thứ ba).

Cuộc cách mạng này phối hợp ICT như các thiết bị chính xác, kết nối vạn vật (IoT), cảm biến, định vị toàn cầu, quản lý dữ liệu lớn (big data), thiết bị bay không người lái (drone), người máy (robot)…, tạo điều kiện cho nông dân tăng thêm giá trị dưới dạng đưa ra được những quyết định khai thác, quản lý hiệu quả hơn.

Đó là: Hệ thống thông tin quản lý, đáp ứng nhu cầu thu thập, xử lý và lưu giữ, cung cấp dữ liệu cần thiết để thực hiện những chức năng của trang trại; nông nghiệp chính xác, thông qua các hệ thống có thể quản lý độ biến động theo không gian và thời gian để cải thiện hiệu quả đầu tư và giảm thiểu tác hại của môi trường.

Nước ta đang có 13,8 triệu hộ nông dân với 78 triệu mảnh ruộng nhỏ lẻ. Muốn phát triển nông nghiệp thành công, không thể dựa vào thực tế trên mà phải cơ cấu lại nền nông nghiệp.

Một trong các giải pháp đó là đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Với thực tế hiện nay, Việt Nam chưa thể áp dụng mô hình nông nghiệp 4.0 đầy đủ như khái niệm của các quốc gia tiên tiến, vì thế, việc trao đổi, phân tích, chỉ ra những cơ hội, thách thức, những điều cần lưu ý trong nâng cao năng lực tiếp cận đối với nông nghiệp thông minh; sự tương thích với năng lực và tình hình thực tế của các địa phương trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết.

Để phát triển nông nghiệp thông minh ở nước ta cần nâng cao trình độ sẵn sàng ứng dụng công nghệ của nông dân; xây dựng mô hình hợp tác công tư hướng đến nông nghiệp thông minh; kết nối giữa công nghệ và doanh nghiệp... 

Theo các chuyên gia, trong khi hạ tầng cơ sở của chúng ta chưa đồng bộ theo khái niệm nông nghiệp 4.0 trên quy mô rộng lớn của cả nước, giá thành sản xuất nhiều mặt hàng cao hơn nhiều nước xung quanh, chúng ta nên đầu tư vào nguồn nhân lực trẻ để làm chủ được các công nghệ, thiết bị nông nghiệp thông minh.

Ngành nông nghiệp, khoa học - công nghệ và các địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đang đầu tư cho nông nghiệp thông minh và quan trọng nhất là Chính phủ cần có chính sách ưu tiên nguồn lực phát triển lĩnh vực này.

Trần Minh Trường - SGGP

Bài gốc